Hiện tại, Broadcom là công ty có giá trị lớn thứ 12 trên thế giới. Ảnh: The Economist.
Ít công ty nào có thể đạt được giá trị lớn như Broadcom mà không được chú ý nhiều trong những năm gần đây. Kể từ cuối năm 2022, giá trị vốn hóa thị trường của nhà sản xuất chip Mỹ này đã tăng đột biến từ khoảng 230 tỉ USD lên hơn 700 tỉ USD vào đầu tháng 9. Hiện tại, Broadcom là công ty có giá trị lớn thứ 12 trên thế giới và là nhà sản xuất chip có giá trị lớn thứ ba, chỉ đứng sau Nvidia, hãng dẫn đầu về chất bán dẫn trí tuệ nhân tạo (A.I), và TSMC, nhà sản xuất chip lớn nhất.
Tương tự như Nvidia và TSMC, Broadcom thu lợi lớn từ cơn sốt A.I. Những “gã khổng lồ” công nghệ như Google, Amazon và Microsoft đã dựa vào bộ xử lý của Nvidia để triển khai các mô hình A.I, nhưng các công ty này cũng đang phát triển các con chip tùy chỉnh và tìm đến Broadcom để được hỗ trợ. Thậm chí, phiên bản mới nhất của chip A.I của Google đã được phát triển bởi Broadcom.
OpenAI, cha đẻ của chatbot ChatGPT cũng đang nghiên cứu thiết kế chip tùy chỉnh với sự hỗ trợ từ Broadcom. Ngoài ra, Broadcom cũng hưởng lợi từ vị thế là nhà cung cấp hàng đầu về chip mạng cho các trung tâm dữ liệu và sở hữu VMware, công ty phát triển phần mềm cho “đám mây riêng” nội bộ. Nhu cầu về cả hai lĩnh vực này đã bùng nổ giữa cơn sốt A.I.
Kết quả là doanh số bán hàng và lợi nhuận của Broadcom đã tăng mạnh. Ngày 5/9, Broadcom báo cáo doanh thu tăng 47% và lợi nhuận hoạt động tăng 44% so với cùng kỳ năm trước trong quý kết thúc vào tháng 8. Công ty cũng dự báo doanh thu quý tới sẽ tăng 51% so với năm trước.
Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ để làm yên lòng các nhà đầu tư lo lắng về thời gian cơn sốt A.I kéo dài. Ngay sau đó, giá cổ phiếu của công ty đã giảm 10% vào ngày hôm sau. Các nhà đầu tư đã quên rằng sự tăng trưởng của Broadcom đã bắt đầu từ rất sớm, trước khi ChatGPT được ra mắt. Trong thập kỷ trước khi chatbot ra đời, giá trị của Broadcom đã tăng gấp 20 lần. Chính các thương vụ mua bán đã thúc đẩy sự phát triển của công ty, không chỉ là công nghệ tiên tiến. Từ khi thành lập vào năm 2005, Broadcom đã chi hơn 140 tỉ USD để mua lại các công ty khác. Có thể nói rằng Broadcom hoạt động như một “cửa hàng” chuyên mua bán hơn là một công ty công nghệ.
Sau khi mua lại một công ty phần mềm cho máy tính lớn và một công ty an ninh mạng, Broadcom đã thực hiện thương vụ lớn nhất của mình vào năm ngoái khi chi số tiền lên đến 69 tỉ USD để mua lại VMware.
Nhìn chung, Broadcom đang sở hữu một danh mục đầu tư đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, sau các thương vụ mua lại, có một logic rõ ràng đằng sau. Broadcom chọn mục tiêu là những công ty có sản phẩm tốt và thị phần lớn nhưng quản lý kém. Chiến lược này giống như các quỹ đầu tư tư nhân, giúp cắt giảm chi phí bằng cách loại bỏ các lớp quản lý và tập trung vào ít sản phẩm hơn. Ngay sau khi hoàn thành thương vụ mua lại VMware vào tháng 11, Broadcom đã sa thải 2.800 nhân viên. Ngoài ra, việc tăng giá và cung cấp gói dịch vụ cũng rất phổ biến, như đã được nhiều khách hàng của VMware đang nhận thấy.
Điều đó không có nghĩa rằng Broadcom chỉ tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn mà còn tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển. Dù bộ phận bán hàng và marketing có thể bị cắt giảm sau một thương vụ, nhưng theo ông Dan Nishball, Chuyên gia tại SemiAnalysis, công ty vẫn tăng cường sự đầu tư vào lĩnh vực này. Tầm quan trọng của các kỹ sư trong Broadcom là không thể phủ nhận, khi chiếm đến 75% tổng số nhân sự.
Tuy nhiên, Broadcom vẫn đối mặt với nhiều rủi ro. Mặc dù sự phụ thuộc vào trí tuệ nhân tạo (A.I) ít hơn so với Nvidia, nhưng việc giảm tốc độ đầu tư vào công nghệ này có thể gây tổn thất cho công ty. Đối tác của Broadcom, bao gồm Apple và Google, đang đẩy mạnh thiết kế chip riêng của họ, có thể làm suy yếu mảng kinh doanh silicon tùy chỉnh của Broadcom. “Thiết kế chip A.I rất phức tạp. Việc để khách hàng của Broadcom phát triển đủ chuyên môn cần thiết sẽ mất thời gian”, ông Mark Lipacis, Chuyên gia của Evercore, cho biết.
Mối lo ngại lớn hơn có thể là việc chuyển giao lãnh đạo. Với ông Tan, ở độ tuổi 70, đã điều hành công ty từ năm 2006, việc tìm người kế nhiệm vừa có kiến thức chuyên môn kỹ thuật vừa có khả năng đàm phán thương vụ như ông Tan sẽ là một thử thách khó khăn. Ông là Giám đốc Điều hành có thu nhập cao nhất trong chỉ số S&P 500 của Mỹ vào năm ngoái, với mức lương thưởng trị giá 162 triệu USD. Hiện tại, ông nói rằng ông có kế hoạch tiếp tục điều hành ít nhất trong bốn năm tới. Có lẽ ông Tan vẫn còn vài thương vụ lớn tiềm năng trong tương lai.
Có thể bạn quan tâm:
Khách quốc tế gây sức ép lên các công ty thẻ tín dụng Nhật Bản
Nguồn The Economist
Cập nhật tin Đầu Tư, Bất Động Sản, tin nhanh kinh tế chứng khoán, kiến thức Doanh Nghiệp tại Fanpage.
Theo dõi
Nhịp Cầu Đầu Tư
<!–Inread Ambient, HIDE 24-4-2020, Script tag (include before the closing tag)–>
<!–Script tag (include before the closing tag)–>